Từ năm 2001 đến nay, Bộ Khoa  học và Công nghệ đầu tư cho 17 phòng thí nghiệm trọng điểm là 1.126 tỷ  đồng, thế nhưng các đề tài, dự án có  sử dụng phòng thí nghiệm trọng điểm chỉ có 3 công trình đăng trên các  tạp chí quốc tế... Tiền chưa chắc đã thiếu, chỉ ngại quản lý chưa hiệu  quả! Có nhà khoa học nổi tiếng chưa được phong Giáo sư vì chưa đủ "tiêu  chuẩn", nhưng cũng có những nhà khoa học đầy đủ chức danh nhưng giới  khoa học quốc tế... không biết là ai (?!) TS Phạm Đức Chính, Viện Cơ học  bày tỏ một số bức xúc về việc đầu tư kinh phí nghiên cứu khoa học hiện  nay.  Số lượng nhiều, chất  lượng thấp            
 Các đề tài, dự án có sử dụng  phòng thí nghiệm trọng điểm đã công bố được 640 bài báo, có 22 bằng sáng  chế & giải pháp hữu ích, hơn 300 bằng khen, nhưng điều đáng chú ý   là chỉ có 3 công trình đăng trên các tạp chí quốc tế, trong khi lại đào  tạo được tới 56 tiến sĩ, 58 thạc sĩ và nâng cao nghiệp vụ cho hàng trăm  cán bộ khoa học thuộc các lĩnh vực có liên quan – số lượng nhiều nhưng  chất lượng quá thấp theo chuẩn mực quốc tế!   Trong khi đó, một giáo sư ngành cơ học chủ trì nhiều đề tài kinh phí lớn  tính toán lũ lụt, nhưng không cho ra được một kết quả chuẩn mực là bài  báo công bố quốc tế. Còn một tiến sĩ cùng chuyên môn, với số kinh phí ít  ỏi hơn nhiều, đưa ra các tính toán của mình về bồi lắng bùn cát trên  sông Hồng ở cửa Ba Lạt được công bố trên tạp chí quốc tế. Tiếc rằng  những nỗ lực công bố quốc tế ở ta, nhất là công bố nội lực, còn quá ít  và thường không nhận được sự ủng hộ cần có.   Chỉ 10% số đề tài nghiên cứu  cơ bản của ngành cơ học những năm gần đây là có công bố quốc tế (một  đồng nghiệp cho biết lĩnh vực khoa học sự sống có khá hơn: 50% số đề tài  có công bố quốc tế, nhưng phần nhiều do cộng tác với nước ngoài mang  lại); còn phần lớn các đề tài kinh phí lớn cấp bộ, ngành và cấp Nhà nước  đều không có công bố quốc tế.   Điều đáng ngạc nhiên là ở các  mức cần phải có đòi hỏi cao hơn, cũng chỉ 10% số thành viên ban biên tập  tạp chí chủ chốt của ngành “cơ học” là có công bố quốc tế, và không  thành viên nào của Hội đồng chức danh Giáo sư ngành cơ học (đồng thời  cũng là Hội đồng ngành nghiên cứu cơ bản) có được công bố quốc tế 5-10  năm gần đây nhất. Trong khi đó Bộ GD&ĐT đang yêu cầu từ luận án tiến  sĩ phải có bài báo quốc tế để hướng tới hội nhập!   Bằng cấp không phản  ảnh đúng thực lực chuyên môn!                
   Nhiều GS quốc  tế rất giỏi qua các công bố bài báo quốc tế cũng không viết sách giáo  khoa hay chuyên khảo. Các đồng nghiệp quốc tế đã rất ngạc nhiên khi biết  một nhà khoa học có uy tín quốc tế như ông Ân lại không đạt tiêu chuẩn  GS ở VN GS. Hoàng Tụy có cho một ví dụ  về “chuẩn mực chức danh” của chúng ta: Một giảng viên đại học ở Nha  Trang có được hàng chục bài báo quốc tế (đồng tác giả với các nhà khoa  học quốc tế), nhưng vẫn không đủ điểm công trình để đạt chức danh PGS,  vì ở ta bài báo quốc tế vẫn bị tính ngang với bài báo trong nước và báo  cáo hội nghị, bất chấp thực tế là nhiều PGS và thậm chí cả GS của chúng  ta cũng không có nổi một bài báo quốc tế!   GS Nguyễn Văn Tuấn cho biết,  không chỉ ở các nền khoa học tiên tiến, mà ngay ở các hàng xóm của chúng  ta như Thái Lan, người ta cũng khuyến khích, thậm chí yêu cầu mỗi GS,  từ một tới hai năm phải công bố tối thiểu 1 bài báo trên tạp chí quốc  tế; Đại học Mahidon ở Thái Lan thậm chí đã đòi hỏi luận văn ThS cũng  phải có bài báo đăng tạp chí chuẩn mực có phản biện kín.             
 Chương trình đào tạo bằng ngân  sách nhà nước (gọi tắt là Chương trình 322) sau một số năm thực hiện đã  đào tạo được 1.740 cán bộ từ đại học trở lên ở nhiều nước có nền  KH&CN tiên tiến (41,6% tiến sĩ, 34,25% thạc sĩ, 13,16% thực tập sinh  và 10,97% đại học).   Thông qua hoạt động của Quỹ  Giáo dục Việt Nam - Hoa Kỳ (VEF), chúng ta cũng đã gửi đi đào tạo được  hơn 100 tiến sĩ và thạc sĩ ở Hoa Kỳ. Nhưng điều quan trọng không kém là  trong số cán bộ đó có bao nhiêu đã trở về nước làm việc? Những người trở  về đã được sử dụng và phát huy năng lực nghiên cứu như thế nào? Họ đã  công bố được bao nhiêu bài báo quốc tế khi học ở nước ngoài, và công bố  bao nhiêu bài mới khi làm việc ở VN?   Một khi các “đầu tàu khoa học”  không xứng đáng là các đầu tàu thực thụ, các “bằng cấp và chức danh  khoa học” không tương xứng với thực lực, việc xét và đánh giá các đề tài  nghiên cứu khoa học bất tuân chuẩn mực quốc tế, thì dễ hiểu con tàu kéo  theo là cả một nền khoa học và giáo dục méo mó và yếu kém không giống  ai! 
          Theo Bộ KH&CN, tổng đầu tư cho 17 phòng thí nghiệm trọng  điểm là 1.126 tỷ đồng (bắt đầu từ năm 2001 cho đến nay), trung bình 1  phòng thí nghiệm trọng điểm đầu tư hơn 66 tỷ đồng (tương đương 4,4 triệu  USD).  
Nghiệm thu một đề tài khoa học. Ảnh chụp tại buổi báo cáo giám  định đề tài thiết lập trạm quan trắc động đất tại TP.HCM vào ngày 16/4.  (Ảnh mang tính minh hoạ). Ảnh: M. Linh 
          Các đồng nghiệp Viện Vật lý nói nhiều tới trường  hợp của ông Nguyễn Bá Ân, một trong số ít chuyên gia có số công bố quốc  tế nhiều nhất ở VN - vượt xa số điểm công trình quy định, nhưng vẫn  không được phong GS, do “chưa đủ điểm viết sách”. Sách “xào xáo” ở VN có  đầy, nhưng những nhà khoa học giỏi biết tự trọng sẽ không cố viết sách  nếu họ không đủ hứng và tâm huyết để viết được quyển sách xứng tầm với  các kết quả nghiên cứu của họ.  
             
          Trong nhiều trường hợp, các bằng cấp, chức danh hình thức của  chúng ta không phản ánh đúng thực lực chuyên môn. Theo gương và tư vấn  quốc tế, Bộ KH&CN đã thành lập Trung tâm hỗ trợ đánh giá KH&CN  để có được danh mục công trình cụ thể của từng nhà khoa học. Tuy nhiên,  như Trung tâm cho biết, sau cả năm gửi thư mời thì cho đến nay mới chỉ  thu được hơn 2000 phiếu đăng ký chuyên gia (bằng 1/10 lực lượng nghiên  cứu). Phần lớn mẫu này là của thạc sĩ, tiến sĩ mới bảo vệ… Cần có chế  tài yêu cầu mọi cán bộ nghiên cứu khoa học đều phải đăng ký, nếu không  sẽ không được phép nhận các đề tài nghiên cứu và tham gia các Hội đồng  khoa học.  TIN LIÊN QUAN