Giáo sư Nguyễn Hữu Tảo (1900 - 1966)

GIÁO SƯ NGUYỄN HỮU TẢO

LƯƠNG SƯ PHÚC HẬU GƯƠNG MÔ PHẠM

Giáo sư Nguyễn Hữu Tảo là người đặt viên gạch đầu tiên và là một trong những người có công sáng lập ra nền giáo dục mác xít ở Việt Nam, đặt nền móng cho sự ra đời của khoa Tâm lý Giáo dục học của Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Ở Thầy toả chiếu ánh sáng của một bậc lão sư tài đức vẹn toàn, học không biết chán, dạy người không mỏi, nhân đức, mẫu mực, khiêm tốn, khoan dung.

Thầy Nguyễn Hữu Tảo sinh năm 1900 trong một gia đình nhà nho nghèo ở Trung Tự, Hà Nội. Cụ thân sinh của Thầy là cụ Nguyễn Hữu Cầu đỗ cử nhân không ra làm việc với thực dân Pháp, đã tham gia phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục, bị bắt đày ra Côn Đảo.

Năm 17 tuổi, Thầy học trường Bưởi (Hà Nội) và đến năm 21 tuổi Thầy thi vào trường Cao đẳng sư phạm Đông Dương. Năm 1924 Thầy tốt nghiệp Cao đẳng sư phạm về dạy trường thành chung Nam Định (nay là trường Trung học Lê Hồng Phong), rồi trường thành chung Hải Phòng (trường ở phố Bonnal, nay là trường Trung học Ngô Quyền).

Cách mạng tháng Tám thành công, Thầy được cử làm Tổng giám đốc Nha tiểu học vụ, Tổng thư ký Hội đồng Tu thư Trung ương của Bộ Giáo dục, Hiệu trưởng trường Sư phạm trung cấp Trung ương.

Ở cương vị nào Thầy cũng đem hết tâm huyết đóng góp vào sự nghiệp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cho ngành giáo dục. Thầy còn là nhà hoạt động xã hội nhiệt tình; hăng hái trong phong trào Hướng đạo sinh, phong trào Truyền bá quốc ngữ, tham gia viết sách dịch thuật, phổ biến khoa học giáo dục rất tận tuỵ.

Giai đoạn sôi nổi nhất là giai đoạn Thầy tập trung nghiên cứu giảng dạy về khoa học giáo dục ở Khu học xá đặt tại Nam Ninh (Trung Quốc) từ năm 1951 đến năm 1954, và giảng dạy, làm Tổ trưởng Tổ Tâm lý - Giáo dục học thuộc Trường Đại học Sư phạm Hà Nội (1955 - 1965). Giai đoạn này, Thầy đã dịch cuốn “Giáo dục học” của Viện sĩ Cai-rốp (Liên Xô) dịch qua bản Trung văn, quyển “Nguyên lý đạo đức cộng sản chủ nghĩa” của Sitxkin (Liên Xô), quyển “Quản lý lãnh đạo nhà trường” của V.Pôpôp, quyển “Mẹ dạy con” dịch từ tập sách của một tập thể tác giả Liên Xô.

Thầy chủ biên “Sơ thảo giáo dục học đại cương”, giáo trình đầu tiên ở Việt Nam dùng cho trường đại học sư phạm, và Thầy soạn giáo trình “Giáo dục học”, bản thảo tặng khoa Tâm lý - Giáo dục học Trường Đại học Sư phạm Hà Nội trước khi nghỉ hưu.

Cả cuộc đời Thầy hi sinh phục vụ cho sự nghiệp “trồng người”. Giáo sư Nguyễn Hữu Tảo là một nhà giáo lớn của chế độ ta. Chúng tôi là sinh viên khoá II lớp Tâm lý - Giáo dục học (năm 1960 - 1961). Gần 50 sinh viên “già” của lớp chúng tôi được Thầy chăm sóc, dạy dỗ. Tình thầy trò của thầy Nguyễn Hữu Tảo, cũng như thầy Nguyễn Lân, thầy Đức Minh đối với chúng tôi thật thắm thiết, đôn hậu, chúng tôi không bao giờ quên được. Hình ảnh, đạo đức và tài năng của Thầy ghi sâu trong tâm hồn chúng tôi, bao nhiêu ấn tượng tốt đẹp không thể kể hết được.

Có lẽ anh chị em chúng tôi nhớ nhất hai câu Thầy hay nhắc nhở: “Học nhi bất yếm, hối nhân bất quyện” lời Khổng Tử dạy (Học mà không chán, dạy người không mỏi), và câu “Học vấn danh cao thực mạc tàm” (cái danh học vấn cao phải là cái học có thực lực thì mới không hổ thẹn). Bài học chúng tôi nhớ sâu sắc nhất ở thầy là bài học: giữ gìn bản sắc nền giáo dục truyền thống của cha ông và tiếp thu sáng tạo nền giáo dục hiên đại và kinh nghiệm tiên tiến của thế giới.

Năm 1962, có phong trào học tập kinh nghiệm giáo dục Lipetx của Liên Xô. Thầy Nguyễn Hữu Tảo dặn dò cán bộ sinh viên cần phải biết cách học tập kinh nghiệm tiên tiến và vận dụng vào điều kiện cụ thể của nhà trường nước ta, không được sao chép kinh nghiệm của các nước một cách máy móc, rập khuôn. Lời thầy dạy rất ứng nghiệm. Hậu quả nhãn tiền lúc ấy là một số trường “ăn sống nuốt tươi” kinh nghiệm giáo dục của Lipetx, không chú ý đặc điểm, hoàn cảnh và điều kiện học tập, giảng dạy của nhà trường ta nên gây ra sự hẫng hụt, học tập Lipetx lại làm cho trường thành “bi bét”.

Khi dạy về các nguyên tắc giáo dục đạo đức, thầy nêu một nguyên tắc giáo dục Phương Đông: “Dĩ đức hóa nhân” (Lấy đạo đức để cảm con người). Thái độ đối nhân xử thế của Thầy thực sự là những dẫn chứng sinh động: hiền từ những nghiêm khắc, khiêm tốn nhưng tự tin, tự cường, giản dị nhưng lịch thiệp trong lời nói, cử chỉ, dáng đi dáng đứng. Thầy luôn luôn quan tâm đến người khác, ít nói về bản thân, không đòi hỏi cho mình. Tiếp xúc với thầy, được học với thầy, phong cách, đạo đức của thầy đã toả rạng và trở thành gương sáng cho chúng tôi noi theo. Ngay từ năm 1962, Thầy đã quan tâm đến giáo dục gia đình. Thầy tìm tòi những tài liệu về gia huấn, dẫn những mẩu chuyện rất Á đông, phân tích tính chất nghiêm và từ trong giáo dục gia đình theo nguyên tắc: chính tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ... Thầy kể và phân tích câu chuyện sau đây thật cảm động và có ý nghĩa sâu sắc cho muôn đời:

 “Ngày xưa có một ông quan quyền cao chức trọng. Có một lần ông trót nhận của hối lộ. Người cha biết và bắt ông quan mũ cao, áo dài, tự rút đôi hia khỏi bàn chân, nằm sấp xuống chiếu để hỏi tội và răn đe. Sau đó người cha đánh ông quan ba roi như trước kia cụ đã trách phạt con khi phạm lỗi nặng. Ông quan nhận lỗi và đứng dậy ôm lấy cha nức nở. Người cha ngạc nhiên hỏi lại:

- Tại sao khi còn nhỏ, mỗi lần nhận hình phạt 3 roi con nín lặng mà lần này con lại khóc nức như vậy? Ông quan khoanh tay cúi đầu đáp: - Thưa cha, con thấy cha đánh con không đau như trước, biết rằng cha tuổi đã già, sức yếu lắm rồi! Vậy mà con nay đã thành đạt nên người rồi lại còn làm cho cha phải phiền lòng, đau khổ thì thật là tội bất hiếu! Từ đó, ông quan lo tu dưỡng bản thân theo nguyên tắc tu, tế, trị, bình để bảo cảnh, an dân, giữ nề nếp gia phong, gia giáo, trở thành người liêm chính, tài năng...”.

Kể xong mẩu chuyện, Thầy nêu vấn đề : Chúng ta học tập được gì trong cách giáo dục của người cha và thái độ của ông quan? Ngày nay, dựa vào nguyên tắc giáo dục mới, chúng ta có nên dùng roi vọt để trừng phạt các cháu không?

Tình thương của Thầy Nguyễn Hữu Tảo đối với anh chị em lớp Giáo dục học, khoá II lúc đó thật là đầm ấm như tình ruột thịt.

Tôi nhớ mãi vào cuối năm 1961, tiết trời trở lạnh, lất phất mưa phùn. Bác Võ Tất Can, nguyên giám đốc giáo dục Liên khu IV, sinh viên lớp chúng tôi, bị ốm đột ngột qua đời. Thầy trực tiếp đến thăm, khóc thảm thiết người học sinh già nua của mình. Tôi làm lớp trưởng, viết điếu văn bác Can, tôi đọc để Thầy Tảo duyệt và cho ý kiến. Thầy chỉ khóc và tôi cũng khóc theo... Tâm hồn Thầy nhân hậu, khoan dung, coi học trò như con cháu mình, như anh em một nhà là thế đấy.

Có thể nói gương sáng về đạo đức nhân nghĩa, nhân cách mẫu mực của Thầy, sự nhất quán giữa lời nói và việc làm của Thầy đã khích lệ thế hệ giảng viên chúng tôi, nguyện suốt đời tận tuỵ với sự nghiệp trồng người, sự nghiệp đấu tranh cho hạnh phúc tuổi trẻ.

Tháng 12/1964, Thầy được nghỉ hưu vào tuổi 65. Lúc ấy Thầy còn sung sức lắm! Thầy làm bài thơ tứ tuyệt tặng bạn đồng nghiệp trong buổi chia tay:

                                              Sao đã ngồi yên hưởng thái bình

                                              Chân đi còn dẻo mắt còn tinh

                                              Còn ghi lời Mác rành trong dạ

                                              Hạnh phúc tìm trong cõi đấu tranh.

Hạnh phúc lớn lao, công lao cao quý nhất của Thầy là đã đào tạo được nhiều thế hệ học trò có nhân cách cao đẹp để phục vụ đất nước như cố Tổng bí thư Trường Chinh, cố Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, những văn nghệ sĩ tài hoa như Thế Lữ, Nguyễn Huy Tưởng, Nguyễn Đình Thi, một số bộ trưởng, thứ trưởng, một số dĩ quan cao cấp trong quân đội nhân dân anh hùng, nhiều nhà khoa học, kỹ sư, bác sĩ và đông đảo các nhà giáo có tài, có đức, các cán bộ và công dân có học vấn, biết đề cao nhân nghĩa, biết trung với nước, hiếu với dân, luôn nhớ câu “Thi huệ vô niệm, thụ ân mạc vong” (Làm ơn không nhớ nghĩ, mang ơn chớ nên quên), câu châm ngôn mà Thầy luôn tâm niệm./.

Nguyễn Như An

(Nguồn: Đại học Sư phạm Hà Nội - Một nửa thế kỷ)


Source: 
03-10-2021
Tags